Gây tê tủy sống là gì? Các công bố khoa học về Gây tê tủy sống

Gây tê tủy sống là quá trình sử dụng thuốc tê tủy để làm giảm hoặc loại bỏ cảm giác đau trong cột sống. Quá trình này thường được sử dụng trong điều trị các bện...

Gây tê tủy sống là quá trình sử dụng thuốc tê tủy để làm giảm hoặc loại bỏ cảm giác đau trong cột sống. Quá trình này thường được sử dụng trong điều trị các bệnh lý liên quan đến cột sống như đau lưng mãn tính, thoát vị đĩa đệm hoặc ung thư xương. Các loại thuốc tê tủy thường được tiêm trực tiếp vào khoang tủy sống hoặc gần khu vực tác động của bệnh lý, từ đó tạo ra khoáng tạm thời hoặc kéo dài để làm giảm cảm giác đau. Quá trình này thường được thực hiện dưới sự giám sát của các chuyên gia y tế.
Quá trình gây tê tủy sống là một quá trình y tế được thực hiện bởi các chuyên gia như bác sĩ đau lưng hoặc chuyên gia y tế đặc biệt, thường là một chuyên gia gây tê tủy. Dưới sự hướng dẫn và giám sát của chuyên gia, bệnh nhân sẽ được yêu cầu nằm nghiêng hoặc ngồi trong tư thế thoải mái trên bệ.

Quá trình gây tê tủy sống bắt đầu bằng việc tạo một không gian giữa các đốt sống trong cột sống để tiêm thuốc tê tủy vào. Quá trình này thường bắt đầu bằng việc giải vô cùng, sát khuẩn và tê ngoài da ở khu vực tiêm chích. Sau đó, một kim nghiến được sử dụng để tiến vào khoang tủy sống thông qua một lớp mô và các cấu trúc xung quanh.

Sau khi kim được đặt vào vị trí, một dung dịch chứa thuốc tê tủy được tiêm qua kim, theo dõi và điều chỉnh bởi chuyên gia. Thuốc tê tủy có thể là một loại thuốc gây tê cục bộ hoặc một hỗn hợp các thuốc tác động khác nhau như gây tê cục bộ, chống viêm hoặc giảm đau.

Khi thuốc tê tủy được tiêm vào, nó sẽ làm giảm cảm giác đau bằng cách tắt tạm thời các tín hiệu đau được truyền từ tủy sống đến não. Thời gian tác dụng của thuốc tùy thuộc vào loại và liều lượng thuốc được sử dụng.

Sau quá trình tiêm, bệnh nhân sẽ được theo dõi kỹ lưỡng trong một thời gian nhất định để đảm bảo không có tác dụng phụ nghiêm trọng từ quá trình gây tê.
Tôi xin lưu ý rằng quá trình gây tê tủy sống là một quá trình y tế phức tạp và chính xác, và các chi tiết cụ thể có thể khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và quy trình mà bác sĩ áp dụng. Tuy nhiên, dưới đây là một số thông tin chi tiết hơn về quá trình gây tê tủy sống:

1. Chuẩn bị trước tiêm: Trước khi tiến hành gây tê tủy sống, bác sĩ sẽ yêu cầu bệnh nhân nằm nghiêng hoặc ngồi trong tư thế thoải mái trên bệ và chuẩn bị các thiết bị cần thiết cho quá trình tiêm.

2. Tiêm tê da: Bác sĩ sẽ áp dụng chất tê da (thường là lidocain hoặc một chất tương tự) tại khu vực tiêm chích nhằm làm tê ngoài da, giảm đau và sát khuẩn khu vực tiêm.

3. Tạo không gian tiêm: Bác sĩ sẽ sử dụng kim nghiến nhỏ để tiên vào không gian tủy sống thông qua lớp mô và cấu trúc xung quanh. Quá trình này được thực hiện cẩn thận để tránh gây ra chấn thương hay tổn thương tủy sống.

4. Tiêm thuốc tê tủy: Sau khi kim được đặt vào vị trí, dung dịch chứa thuốc tê tủy được tiêm qua kim. Loại thuốc tê tủy phụ thuộc vào mục tiêu và mục đích của quá trình. Các loại thuốc thường được sử dụng bao gồm lidocain, bupivacain, ropivacain hoặc một hỗn hợp của chúng. Thuốc tê tủy sẽ tiếp xúc với đường tủy sống và tác động lên dây thần kinh nằm trong tủy sống, từ đó gây tê hoặc giảm đau.

5. Theo dõi và điều chỉnh: Bác sĩ sẽ theo dõi cẩn thận quá trình tiêm và điều chỉnh liều lượng thuốc tùy thuộc vào phản ứng của bệnh nhân. Mục tiêu là giảm đau một cách hiệu quả mà không gây tác dụng phụ nghiêm trọng.

6. Theo dõi sau tiêm: Sau tiêm thuốc, bệnh nhân sẽ được theo dõi kỹ lưỡng trong một thời gian nhất định để đảm bảo không có tác dụng phụ nghiêm trọng từ quá trình gây tê. Bác sĩ sẽ thường xuyên kiểm tra mức đau của bệnh nhân và theo dõi liệu có cần tiêm thêm thuốc hay không.

Trong một số trường hợp, gây tê tủy sống có thể được thực hiện thông qua thiết bị điện tử (như bơm tê tuần hoàn) hoặc sử dụng kim nhỏ để tiêm thuốc liên tục trong một khoảng thời gian dài. Tuy nhiên, quá trình này yêu cầu kiểm soát kỹ lưỡng và theo dõi chặt chẽ từ phía chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "gây tê tủy sống":

Đánh giá thay đổi huyết động đo bằng USCOM ở bệnh nhân phẫu thuật chấn thương được truyền dịch tinh thể và dịch keo trước gây tê tủy sống
Mục tiêu: Đánh giá thay đổi các chỉ số huyết áp, tần số tim, cung lượng tim (CO), thể tích tống máu (SV), biến thiên thể tích tống máu (SVV) và sức cản mạch hệ thống (SVR) đo bằng USCOM ở bệnh nhân có truyền 15ml/kg NaCl 0,9% và 7ml/kg voluven 6% (HES 130/0,4) trước gây tê tuỷ sống cho phẫu thuật chi dưới. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, đối chứng ngẫu nhiên, mù đơn, thử nghiệm lâm sàng trên 60 bệnh nhân tại Khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2014 đến tháng 5/2014 chia đều thành 2 nhóm: Nhóm 1 (n = 30) được truyền 15ml/kg NaCl 0,9% trong vòng 20 phút trước gây tê tuỷ sống. Nhóm 2 (n = 30) được truyền 7ml/kg voluven 6% (HES 130/0,4) trong vòng 20 phút trước gây tê tuỷ sống đánh giá thay đổi cung lượng tim, thể tích tống máu, biến thiên thể tích tống máu và sức cản mạch hệ thống sự khác nhau về huyết áp, tần số tim tại các thời điểm T1- T10. Kết quả: Bệnh nhân bị tụt huyết áp ở nhóm 1 cao hơn nhóm 2 tại các thời điểm từ T1-T6, huyết áp trung bình của nhóm 2 cao hơn nhóm 1 tại các thời điểm T2, T3, T5, T6. Cung lượng tim tại các thời điểm T2, T3, T4 của nhóm 2 cao hơn nhóm 1. Sức cản mạch hệ thống tại các thời điểm sau gây tê tuỷ sống nhóm 1 thấp hơn nhóm 2 tại T1, T2, T3, T5, T6. Thể tích tống máu của nhóm 2 cao hơn nhóm 1 tại các thời điểm T2, T3, T4, T5, T6, T7. Biến thiên thể tích tống máu của nhóm 2 thấp hơn nhóm 1. Tỷ lệ tụt huyết áp ở nhóm 1 cao hơn hẳn nhóm 2. Tỷ lệ tái tụt huyết áp ở lần 2 không có trường hợp nào ở nhóm 2, ở nhóm 1 có 8/30 bệnh nhân (26,67%). Kết luận: Khi được truyền trước gây tê tuỷ sống, NaCl 0,9% không làm tăng CO, SV nhưng làm tăng SVV, voluven 6% có xu hướng tăng CO, SV và SVR và duy trì SVV ổn định trong và sau gây tê tuỷ sống so với thời điểm nền. Tỷ lệ tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống ở nhóm voluven 6% thấp hơn.
#Huyết động #USCOM #chấn thương #gây tê tuỷ sống
HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG TỤT HUYẾT ÁP CỦA CÁC LIỀU TRUYỀN TĨNH MẠCH NORADRENALIN KHÁC NHAU TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐỂ MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả dự phòng tụt huyết áp và ảnh hưởng không mong muốn của ba liều truyền tĩnh mạch noradrenalin khác nhau trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 120 sản phụ mang thai đủ tháng có chỉ định gây tê tủy sống để mổ lấy thai chủ động được chia ngẫu nhiên làm ba nhóm nhận ba liều noradrenalin truyền tĩnh mạch là 0,025 µg/kg/phút; 0,05 µg/kg/phút và 0,075 µg/kg/phút ngay khi gây tê tủy sống. Các tiêu chí đánh giá chính gồm: tỉ lệ tụt huyết áp, tỉ lệ tăng huyết áp, tần số tim chậm, tỉ lệ buồn nôn và nôn, điểm Apgar và khí máu động mạch rốn. Kết quả: Tỉ lệ tụt huyết áp ở nhóm 0,05 µg/kg/phút và nhóm 0,075 µg/kg/phút (đều là 10%) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm 0,025 µg/kg/phút (27,5%) (p < 0,05). Tỉ lệ tăng huyết áp ở nhóm liều 0,075 µg/kg/phút là 5% (n=2), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với 2 nhóm còn lại. Tỉ lệ tần số tim chậm, buồn nôn và nôn ở mẹ, điểm Apgar sau 1 và 5 phút, khí máu động mạch rốn của sơ sinh là tương đương nhau giữa ba nhóm (p>0,05). Kết luận: Hai liều truyền tĩnh mạch noradrenalin 0,05 µg/kg/phút và 0,075 µg/kg/phút có hiệu quả làm giảm sự tụt huyết áp sau gây tê tủy sống trong mổ lấy thai hơn liều 0,025 µg/kg/phút. Liều 0,075 µg/kg/phút có thể gây tăng huyết áp. Không có sự khác biệt về tỉ lệ tần số tim chậm, buồn nôn và nôn, kết quả trên trẻ sơ sinh giữa ba nhóm nghiên cứu.
#noradrenalin #tụt huyết áp #dự phòng #gây tê tủy sống cho mổ lấy thai
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA NEOSTIGMIN VÀ ATROPIN ĐỂ ĐIỀU TRỊ ĐAU ĐẦU SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG HOẶC GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG SẢN KHOA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Neostigmin và Atropin để điều trị đau đầu sau gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng trong sản khoa. 60 sản phụ đau đầu sau gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng, đủ tiêu chuẩn lựa chọn được phân bố ngẫu nhiên để điều trị bằng Neostigmin 20mcg/kg và Atropin 10mcg/kg hoặc Paracetamol 1g. Kết quả cho thấy điểm VAS trung bình khi bệnh nhân ngồi thẳng 15 phút khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (p < 0,05) ở các thời điểm sau tiêm thuốc 6 giờ, 12 giờ, 24 giờ, 36 giờ, 48 giờ, 72 giờ. Nhóm Neostigmin + Atropin không có bệnh nhân nào cần làm thủ thuật vá máu ngoài màng cứng trong khi nhóm Paracetamol có 6 bệnh nhân (p<0,05).
#đau đầu sau gây tê tủy sống #đau đầu sau gây tê ngoài màng cứng #Neostigmin #Atropin
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TỤT HUYẾT ÁP SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG PHENYLEPHRINE VÀ EPHEDRINE Ở SẢN PHỤ MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số 5 - 2023
Mục tiêu: So sánh kết quả điều trị tụt huyết áp sau gây tê tủy sống giữa Phenylephrine và Ephendrine trên sản phụ mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu có nhóm chứng trên 63 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chương trình dưới GTTS được điều trị bằng phenylephrine hoặc ephedrine tại Trung tâm Y tế huyện Giồng Riềng từ tháng 1/2022 đến tháng 9/2022. Kết quả: Sau khi gây tê tủy sống, huyết áp có xu hướng giảm, sau khi dùng thuốc co mạch, huyết áp tăng không khác biệt giữa hai nhóm. Sau khi sử dụng Phenylephrine khiến tần số tim giảm mạnh hơn về gần sấp xỉ nhịp tim ở mức nền, trong khi Ephrine không làm thay đổi tần số tim đáng kể và ổn định hơn. Cung lượng tim giảm đáng kể ở nhóm sản phụ sử dụng Phenylephrine và tăng ở nhóm sử dụng Ephedrine. Nguy cơ Phenylephrine làm nhịp tim chậm nhiều hơn Ephedrine, Phenylephrine gây buồn nôn, nôn ít hơn Ephedrine. Kết luận: Phenylephrine có tác dụng làm tần số tim giảm mạnh, Ephrine không làm thay đổi tần số tim đáng kể. Cung lượng tim giảm ở nhóm sản phụ sử dụng Phenylephrine và tăng ở nhóm Ephedrine. Phenylephrine làm nhịp tim chậm nhiều hơn Ephedrine, Phenylephrine gây buồn nôn, nôn ít hơn Ephedrine.
#Ephedrine #Phenylephrine #gây tê tủy sống #sản phụ.
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN KẾT HỢP VỚI CÁC LIỀU MORPHIN KHÁC NHAU TRONG PHẪU THUẬT CHẤN THƯƠNG CHI DƯỚI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh tác dụng không mong muốn của GTTS bằng 8mg bupivacain 0.5% kết hợp với 100mcg, 200mcg, 300mcg morphin trong phẫu thuật chấn thương chi dưới tại bệnh viện Quân Y 105 từ tháng 11/2018 đến tháng 04/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, tiến cứu, có nhóm so sánh. Bệnh nhân được chia vào 03 nhóm ngẫu nhiên: Nhóm I gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,10mg. Nhóm II gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,20mg. Nhóm III gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,3mg. Kết quả nghiên cứu: Sự thay đổi về mạch và huyết áp cũng như các thay đổi về hô hấp: SpO2, tần số thở tại các thời điểm nghiên cứu không nhiều, trong giới hạn bình thường và không có sự khác biệt giữa ba nhóm với p > 0,05. Các tác dụng khác như bí tiểu, nôn, rét run, đau đầu không có sự khác biệt giữa 3 nhóm. Kết luận: Liều dùng morphin giảm đau: nên dùng liều 0,3mg vì tác dụng không mong muốn không có sự khác biệt so với liều 0,2mg hay 0,1mg mà tác dụng vô cảm và giảm đau tốt hơn.
#gây tê tủy sống #bupivacaine #morphin
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG PHỤ KHI ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG NÔN, BUỒN NÔN BẰNG DEXAMETHASON 8MG VÀ ONDASETRON 4MG TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN VÀ MORPHIN TRONG MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng phụ khi điều trị dự phòng nôn, buồn nôn bằng dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg trong gây tê tủy sống bằng bupivacain và morphin sulphat để mổ lấy thai thực hiện tại bệnh viện phụ sản Hải Phòng trong thời gian từ tháng 10/2018 đến tháng 2/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tiến cứu có so sánh. Nhóm đối chứng (nhóm 1): sử dụng thuốc chống nôn bằng dexamethasone 8mg và nhóm nghiên cứu (nhóm 2): có sử dụng phối hợp thuốc chống nôn dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg. Kết quả nghiên cứu: Các kỹ thuật trên không ảnh hưởng tới huyết động và hô hấp của sản phụ. Tỷ lệ tụt huyết áp HATB từ 20-30% trong nhóm 1 (nhóm đơn độc) là 3,1% thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm 2 (nhóm dùng phối hợp 2 thuốc) là 8,6% Nhưng tỉ lệ này thấp hơn so với một số nghiên cứu khác. Kết luận: Nên sử dụng dexamethasone và ondansetron để dự phòng nôn, buồn nôn cho bệnh nhân vì hiệu quả cao và tỉ lệ tác dụng phụ xảy ra thấp.
#dexamethasone #ondansetron #gây tê tủy sống
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG NÔN, BUỒN NÔN BẰNG DEXAMETHASON 8MG VÀ ONDASETRON 4MG TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN VÀ MORPHIN TRONG MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả dự phòng nôn và buồn nôn bằng dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg trong gây tê tủy sống bằng bupivacain và morphin sulphat để mổ lấy thai thực hiện tại bệnh viện phụ sản Hải phòng trong thời gian từ tháng 10/2018 đến tháng 2/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tiến cứu có so sánh. Nhóm đối chứng (nhóm 1): sử dụng thuốc chống nôn bằng dexamethasone 8mg và nhóm nghiên cứu (nhóm 2): có sử dụng phối hợp thuốc chống nôn dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nôn - buồn nôn ở nhóm sử dụng đơn thuần dexamethasone (với 15,6%) cao hơn so với nhóm sử dụng phối hợp phối hợp dexamethasone và ondansetron (với 6,9%) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Mức độ nôn - buồn nôn ở nhóm sử dụng đơn thuần dexamethason nặng hơn so với nhóm sử dụng phối hợp dexamethasone và ondansetron ở tất cả các các mức độ. Kết luận: Nên sử dụng phối hợp dexamethasone và ondansetron để dự phòng nôn, buồn nôn cho bệnh nhân gây tê tủy sống trong mổ lấy thai.
#dexamethasone #ondansetron #gây tê tủy sống
SO SÁNH MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ TỦY SỐNG - NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP VỚI GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐƠN THUẦN ĐỂ MỔ LẤY THAI TRÊN SẢN PHỤ CÓ NGUY CƠ CAO TỤT HUYẾT ÁP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để vô cảm cho mổ lấy thai ở sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành trên 60 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chủ động, có một trong các yếu tố nguy cơ cao tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống: đa thai, đa ối, thai to, được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm để thực hiện 2 kỹ thuật vô cảm khác nhau: nhóm I gây tê tuỷ sống với liều bupivacaine theo chiều cao của bệnh nhân(cao <150cm: 7mg, từ 150 - 160cm: 8mg, >160cm: 8,5 mg) và nhóm II gây tê tuỷ sống liều 5mg bupivacaine phối hợp với tê ngoài màng cứng 10ml Lidocaine 1% with adrenaline 1: 200 000, cả hai nhóm đều được tiêm dưới nhện 30mcg fentanyl. Các thuốc co mạch sẽ được dùng điều chỉnh theo mạch, huyết áp của sản phụ. Các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con được theo dõi liên tục trong 48 giờ sau mổ. Kết quả: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp có tỷ lệ nôn, buồn nôn là 6,67% so với 23,3% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần (p < 0,05). Tỷ lệ ngứa, rét run ở nhóm gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp  là 23,3% và 13,3% so với 26,6% và 26,6% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần; không gặp bệnh nhân nào bị suy hô hấp, an thần sâu, đau đầu, bí tiểu ở cả hai nhóm. Điểm Apgar phút thứ nhất và phút thứ 5 của trẻ sơ sinh ở hai nhóm đều > 8, không có sự khác biệt). Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con. Kết luận: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp ít gặp nôn, buồn nôn hơn so với phương pháp gây tê tủy sống đơn thuần. Các tác dụng không mong muốn khác trên mẹ và con không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con.
#Mổ lấy thai #gây tê tuỷ sống #gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp #tác dụng không mong muốn
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA GRANISETRON SO VỚI ONDANSETRON TRONG DỰ PHÒNG MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG TRONG PHẪU THUẬT CHI DƯỚI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Nghiên cứu tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được tiến hành nhằm so sánh hiệu quả của granisetron so với ondansetron trong dự phòng một số tác dụng không mong muốn của gây tê tủy sống trong phẫu thuật chi dưới. 60 bệnh nhân, chia thành 2 nhóm, được phẫu thuật chi dưới vô cảm bằng phương pháp gây tủy sống tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 1 – 6/2022. Kết quả: một số chỉ số nhân trắc, loại phẫu thuật tương đương ở 2 nhóm. Sau gây tủy sống, nhóm sử dụng granisetron nguy cơ nôn, buồn nôn giảm 0,24 lần so với nhóm sử dụng ondansetron, khác không có ý nghĩa thống kê với p ˃ 0,05. Trên tuần hoàn: nhóm sử dụng granisetron có xu hướng nhịp tim ổn định hơn so với nhóm sử dụng ondansetron, khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p ˃ 0,05; nhóm sử dụng granisetron nguy cơ tụt huyết áp giảm 4,5 lần so với nhóm sử dụng ondansetron, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p ˂ 0,05. Kết luận: Granisetron có hiệu quả tốt hơn ondansetron trong dự phòng một số tác dụng không mong muốn của gây tê tủy sống trong phẫu thuật chi dưới.
#Gây tê tủy sống #Granisetron #Ondansetron #phẫu thuật chi dưới
SO SÁNH TÁC DỤNG TRÊN TUẦN HOÀN VÀ CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG CỦA ONDANSETRON VỚI DEXAMETHASON HOẶC METOCLOPRAMID ĐỂ DỰ PHÒNG NÔN, BUỒN NÔN TRONG VÀ SAU MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh tác dụng trên tuần hoàn và các tác dụng không mong muốn của Ondansetron với Dexamethason hoặc Metoclopramid để dự phòng nôn, buồn nôn trong và sau mổ lấy thai. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 90 sản phụ ASA I-II (20 - 41 tuổi), có chỉ định mổ lấy thai, vô cảm bằng gây tê tủy sống, tại khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện phụ sản Hà Nội từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2020. Các sản phụ được phân loại ngẫu nhiên thành ba nhóm bằng nhau: Nhóm O được tiêm tĩnh mạch 8 mg Ondansetron, nhóm D được tiêm tĩnh mạch 8mg Dexamethason, nhóm M được tiêm tĩnh mạch 10 mg Metoclopramid. Các tác dụng không mong muốn được đánh giá liên tục trong và 24 giờ đầu sau mổ. Kết quả: Tỷ lệ tụt huyết áp của các bệnh nhân ở nhóm Ondansetron là 36,7%; của nhóm Dexamethasone là 56,7% và của nhóm Metoclopramide là 53,3%, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ ngứa của ba nhóm lần lượt là: 36,7% so với 56,7% và 43,3%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Không gặp trường hợp nào bị đau thượng vị, rối loạn nhịp tim hoặc bị hội chứng ngoại tháp… Kết luận: Tỷ lệ tụt huyết áp của các bệnh nhân ở nhóm Ondansetron thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm Dexamethason hoặc nhóm  Metoclopramid với p<0,05. Tỷ lệ các tác dụng không mong muốn khác như: ngứa, đau thượng vị… không có sự khác biệt giữa ba nhóm. Không gặp trường hợp nào bị rối loạn nhịp tim hoặc bị hội chứng ngoại tháp.
#Gây tê tủy sống #Ondansetron #Dexamethason #Metoclopramid #mổ lấy thai
Tổng số: 37   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4